Viết lời cảm ơn, khép lại một chặng đường

Tôi không dám nói 7 năm trải nghiệm cuộc sống của tôi ở New Zealand và một số quốc đảo Thái Bình Dương chỉ toàn tiếng cười. Nhưng tôi biết mình đã lớn lên một chút trong hành trình suốt đời học hỏi và lớn khôn. Tôi cũng biết mình sẽ không thể lớn được “một chút đó” nếu không đi con đường mình đã đi. Tôi ngồi đợi chuyến bay quốc nội về lại thành phố gió sau khi đưa Ba Má và chị đón chuyến bay từ Auckland về Singapore rồi chuyển tiếp về Việt Nam. Tôi chợt tự hỏi tôi đã là người thế nào trước khi tới New Zealand; giờ tôi đã thay đổi ra sao và những thay đổi nào đến từ đất nước của những chú cừu quanh năm lững thững ăn cỏ trên những ngọn đồi xanh mướt?

Tôi nghĩ…tôi nhớ…

Tôi nhớ cách đây 7 năm tôi là một đứa con gái tuổi trâu nhưng cầm tinh “con ngựa”. Chỉ vài ngày không đi đâu xa là tôi chồn chân, ngứa cẳng. Chỉ từ sáng tới chiều không “trà chanh, chém gió” là tôi thấy mình như bị cả thế giới lãng quên. Tôi sống nhanh, sống vội như muốn làm tất cả mọi thứ chỉ trong một vài ngày. Giờ thì khác. Tôi chuộng đi những nơi mà chân tôi tự chạy (bộ) đến được. Hằng ngày tôi chỉ cần chạy qua con đường rợp bóng cây sau nhà, vượt qua con dốc gần thẳng đứng đến khu vườn bách thảo, đôi khi không gặp một bóng người tôi vẫn thấy cuộc sống bát ngát sắc màu và quá đỗi tươi đẹp. Tôi có thể cả ngày không mất thời gian cho những lời xã giao sáo rỗng; thay vào là những lúc vu vơ ngân nga những giai điệu không đầu không cuối cũng đủ làm tâm hồn nhẹ tựa mây và vui rộn ràng như những cơn gió mùa xuân đùa chơi trên cỏ ướt. Tôi của 7 năm trước độc lập nhưng vẫn mãi đi tìm những niềm vui, hạnh phúc đến từ bên ngoài. Tôi của bây giờ thì chắc chắn những niềm vui chủ yếu đến từ bên trong của những tâm hồn giản đơn và chủ động. Đây có lẽ là sự khác biệt lớn và quan trọng nhất. Và tôi cũng chắc chắc sự khác biệt này có được là nhờ những trải nghiệm sống, học tập, lao động và du lịch ở những vùng đất đa văn hóa của Thái Bình Dương.

Vì vậy, tôi muốn cảm ơn Thái Bình Dương một cách thành thật và thiết tha nhất có thể. Điều đầu tiên cần cảm ơn là học bổng phát triển New Zealand (NZAid) vì không có xuất phát điểm này thì tôi chẳng có khác biệt nào để mà tâm sự ở đây cả. Việc được chính phủ nước bạn cho tiền đi học đương nhiên là tuyệt vời. Tuy nhiên trải nghiệm giáo dục tôi trân quí nhất là kĩ năng làm nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên môn. Trước khi đi học, tôi giảng dạy khoảng một năm ở một trường đại học tư có tiếng ở miền Trung. Nhưng mỗi lần nghe đến việc kêu gọi làm nghiên cứu khoa học là tôi nổi da gà. Mà chẳng phải mình tôi “ngại” nghiên cứu, tình trạng này phổ biến ở Việt Nam – trước đây và bây giờ vẫn vậy. Lý do chính là vì công tác nghiên cứu khoa học không được hướng dẫn và đào tạo bài bản trong tất cả các bậc học và chương trình đào tạo trợ giảng, giảng viên. Trong khi đó, ngay sau khi bắt đầu chương trình, môn học đầu tiên và bắt buộc chúng tôi cần tham gia đầy đủ là Research Methodology (Phương pháp làm nghiên cứu khoa học). Trong ngành du lịch của tôi, môn này còn được đặt trọng tâm “yêu cầu dạy kĩ” đến mức một mình nó mà có hai học phần riêng. Học phần A giới thiệu chung về các phương pháp nghiên cứu, nhấn mạnh nền tảng của việc nghiên cứu thông qua việc quan sát, thực hiện kiểm chứng, cách lập luận diễn dịch và quy nạp, cách tạo và chứng minh các giả thuyết khoa học. Học phần B đi sâu và các phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội, đồng thời lồng ghép các khía cạnh văn hóa và kinh tế đặc thù của ngành du lịch. Chưa hết, năm nào giáo viên cũng đánh giá, kiểm tra toàn bộ nội dung xem có cần phải cập nhật, bổ sung gì thêm. Sinh viên (được học bổng) nếu muốn có thể học đi học lại đến khi nào thấy yên tâm thì thôi. Nhờ kĩ lưỡng nhường ấy mà tôi từ một đứa sinh viên nghe đến nghiên cứu khoa học là sợ đến một người chưa làm nhiều nghiên cứu và vẫn toát mồ hôi khi làm nghiên cứu nhưng hiểu được vì sao phải làm và cách tiếp cận cần những gì.

Điều thứ hai tôi cần cảm ơn các nước Thái Bình Dương nói chung và New Zealand nói riêng là tinh thần “self-love”. Xin các bạn đừng vội nghĩ có tiền tố “self” ở đầu là nền tảng cho chủ nghĩa “selfish” – ích kĩ cá nhân. Hoàn toàn không phải như vậy, thậm chí là ngược lại. Tinh thần “self-love” được (tôi bây giờ) hiểu là xuất phát điểm đúng đắn để khám phá thế giới – cả thế giới bên trong đầy bí ẩn mà tôi chưa từng để mắt tới và cả thế giới bên ngoài bao la mà tôi từng chỉ đứng ngắm từ xa. Tôi kể cụ thể bạn nghe. Tôi của 7 năm về trước và cả trước trước đó nữa yêu tất cả mọi người từ người thân đến những người không hề quen biết, đến những người trên phim hay trong truyện. Tôi yêu tất cả mọi sự vật sự việc từ cành cây gãy sau cơn bão đến đàn kiến đi kiếm ăn đến rừng cỏ may bám vào áo quần gỡ suốt một tuần không hết. Nhưng có một điều duy nhất tôi không yêu, thậm chí còn không buồn nghĩ đến – đó là bản thân. Tôi còn nhớ có hôm tôi cố vui để mọi người xung quanh yên tâm nhưng tối đến tôi chì chiết bản thân không ra gì chỉ vì một lỗi cỏn con là làm vỡ cái bình bông. Cái phiên bản tôi của tôi nói thật bị tôi đối xử như con ghẻ không bằng. Quanh năm suốt tháng tôi chẳng đoái hoài gì đến nó; tôi chẳng bao giờ sửa soạn chăm sóc gì cho bản thân để tôi đẹp hơn, khỏe hơn, tự tin hơn. Tôi còn mãi đi lấp đầy cuộc sống của mình với những tình yêu dành cho mọi sự vật, sự việc, con người bên ngoài. Tất nhiên tình yêu chẳng làm gì có lỗi. Vấn đề là sự mất cân đối. Mà tôi cũng đã từng chẳng có thời gian để ngồi nghĩ xem yêu như vậy đã công bằng, cân đối hay gì gì chưa. Tôi cứ như thể cho đến một ngày, đúng là đến một ngày đẹp trời khi chiếc máy bay lảo đảo mãi mới đáp xuống được xứ
gió Wellington – cái ngày mà mọi tế bào “nồng nhiệt” trên cơ thể tôi bị khớp như đột ngột đi vô phòng đông lạnh. Tôi đã như nghe được chúng hoảng hốt hỏi nhau: “ Ối, mọi người, mọi vật mà chúng ta vẫn yêu như máu thịt đâu hết rồi. Đi đâu hết rồi!?”

Suốt một thời gian đầu chông chênh vì không có gì quen biết để yêu thương, dựa dẫm về tinh thần. Chỉ có những lúc nhìn vào gương mới thấy được một gương mặt “không lạ”. Riết rồi tôi có thói quen nói chuyện với chính mình. Nói đủ thứ chuyện, chuyện gì cũng nói và nói như tâm sự với một người bạn. Tôi quan sát thấy bạn bè, đồng nghiệp người Kiwi mà tôi quen biết đều quan niệm “bản thân mình phải thấy ổn trước tiên”. Lúc đầu, tôi cho rằng chỉ suy nghĩ cho mình như vậy là ích kỷ và không áp dụng được với những người sinh ra lớn lên ở một đất nước có nền văn hóa Á Đông như Việt Nam. Nhưng tôi lầm, lầm to! Thứ nhất, biết lo để mình cảm thấy ổn không phải là ích kỉ mà là thuận tự nhiên và bền vững. Một người đói không thể chia phần cơm của mình cho người khác. Một người bệnh không thể chăm người khác. Một người đang buồn không thể làm người khác vui. Mà nếu có thể thì cũng chỉ được một, hai lần là lại không thể. Vậy nên, trước tiên phải chăm sóc bản thân để thấy ổn, thấy vui, thấy khỏe trước khi nghĩ đến việc giúp đỡ, yêu thương ai. Chưa kể tình trạng và tâm trạng tiêu cực của bản thân có thể ngay lập tức ảnh hưởng đến người khác. Mà không làm ảnh hưởng tiêu cực đến ai bản thân nó đã là một hành động tử tế rồi. Đây là tinh thần self-love của những người tôi đã gặp ở New Zealand.

Người dân New Zealand có thể nói là những người yêu hoạt động thể thao nhất mà tôi từng gặp. Vào bất cứ mùa nào trong năm, vào bất cứ thời điểm nào trong ngày khi mặt trời chưa đi ngủ, bạn cũng có thể bắt gặp rất nhiều người đang tập thể dục với cường độ cao. Hai bộ môn phổ biến nhất là chạy bộ và đi bộ đường dài (trekking). Nhưng các bộ môn khác từ khắp nơi trên thế giới đều có thể được thực hành ở đảo quốc này miễn là có một người hướng dẫn và vài ba người khác quan tâm. Ví dụ từ kiếm đạo của Nhật Bản đến vũ điệu dân gian của Ireland đều có ban điều hành, hiệp hội thường xuyên tổ chức lớp và các cuộc thi phong trào rất bài bản. Chưa kể New Zealand cũng là quê hương của nhiều môn thể thao mạo hiểm như nhảy Bungee, bóng lăn Zorbing hay khám phá thác ghềnh bằng tàu phản lực. Tôi chưa một lần dám mấp mé thử nhảy Bungee hay đi tàu phản lực vì tôi biết mình rất sợ tốc độ và sợ độ cao. Nhưng về khía cạnh thể dục thể thao hằng ngày thì tinh thần rèn luyện thể chất thường xuyên của người Kiwi đã giúp tôi rất nhiều trên hành trình từ một đứa ngủ nướng đến một con người thật sự yêu thích chạy bộ.

Thái Bình Dương yêu quí cũng dạy cho tôi biết “children spell love…T.I.M.E”. Nghĩa là sao? Nghĩa là dù người lớn muốn nghĩ thế nào, muốn mua chuộc hay thay thế ra sao thì trẻ em vẫn cảm nhận tình yêu thương thông qua thời lượng bạn dành cho trẻ. Điều kiện khách quan thuận lợi là thói quen cân đối giữa công việc và cuộc sống ở NZ đòi hỏi chính phủ phải tạo ra những điều kiện vui chơi giải trí thân thiện nhất cho các gia đình có trẻ con. Mật độ khu vui chơi ngoài trời cho trẻ ở NZ thật sự rất dày đặc. Có khu được trang bị rất đầy đủ và dễ thương nhưng bị bỏ qua chỉ vì gần đó đã có một khu khác rộng hơn và khu dân sinh này…có khi không có nhiều trẻ bằng khu đó! Tôi chạy bộ qua lại cứ đứng lại tặc lưỡi thèm thuồng…ước gì cái khu này bay vèo một cái về Việt Nam – quốc gia có lẽ có tỉ lệ khu vui chơi ngoài trời công cộng dành cho trẻ thấp nhất thế giới.

Ở NZ các bậc Cha Mẹ (nếu không đi công tác) luôn dành trọn cuối tuần và các ngày nghĩ lễ cho các hoạt động cùng con cái. Tương tự, để tạo điều kiện, các nhà trẻ tuyệt đối không nhận giữ trẻ vào hai ngày thứ Bảy, Chủ Nhật và cũng nghỉ lễ tối đa thời gian có thể hoặc hơn. Tôi dẫn con trai nhỏ qua lại NZ sống một thời gian khi con 14 tháng tuổi – gian đoạn bé đã biết yêu những ai dành nhiều thời gian cho mình. Tôi đã không quên mang theo tác phong của những bà mẹ Việt điển hình: thức khuya dậy sớm, cố gắng làm tất cả mọi việc. May mà tôi không theo phong cách của bà mẹ Việt Nam truyền thống là cố gắng làm tất cả mọi việc…bằng tay! Bên này cũng không thể áp dụng giải pháp thuê người giúp việc nhà như ở các đô thị hiện đại trong nước. Thế là tôi cứ theo kiểu “mẹ làm tất”, chưa kể con rên một tiếng là lo sốt vó, con bỏ ăn một bữa là truy lùng lý do. Kết quả là tôi thiếu ngủ triền miên và cuối tuần thì tìm cách ngủ bù hay tụ tập bạn bè thay vì vui chơi với con. Nhưng nhập gia thì phải tùy tục. Cuối tuần hàng quán hầu hết đóng cửa, người người nhà nhà có con nhỏ đi dã ngoại, picnic, đi khu vui chơi ngoài trời chứ không ai thích đi trà chanh, chém gió với đồng nghiệp đã chạm mặt suốt tuần. Mà người Việt được cái học hỏi và thích nghi nhanh. Tôi nhanh chóng nhận ra điều quan trọng là mẹ khỏe, con vui chứ không phải là nhà sạch hay con có tăng kí bằng con nhà hàng xóm!

Đến thời điểm hiện tại, tôi thấy mình giống bạn của con hơn là một bà mẹ hay lam hay làm, chịu thương chịu khó. Tôi bỗng nhớ đến bà mẹ và em bé người Fiji mà tôi đã gặp. Tôi không còn nhớ tên cô ấy nữa nhưng vẫn nhớ như in đó là một buổi chiều chủ nhật, tầm 4 giờ rồi nhưng mặt trời vẫn chói chang. Cô ấy nằm trên bãi cỏ, ngân nga một giai điệu trong tiếng Fiji; còn cậu bé con khoảng 2 tuổi đứng bên cạnh cười lanh lảnh và nhún nhảy theo nhịp hát của mẹ. Đó là cảnh tượng mẹ-con-vui-đùa giản đơn mà hạnh phúc nhất tôi từng thấy. Thái Bình Dương cũng là nơi tôi chứng kiến hạnh phúc chẳng việc gì phải liên quan đến việc có bao nhiêu tiền! Hạnh phúc không tỉ lệ nghịch mà cũng không tỉ lệ thuận với túi tiền. Đơn giản là nó chẳng (thèm) liên quan tới tiền. Như cái trò bong bóng xà phòng tôi học được ở một chú ở Wellington nè – nó là trò rẻ nhất nhưng mang lại hạnh phúc lớn nhất cho không chỉ một mà cả một đám trẻ con.

Thương tặng Thái Bình Dương yêu thương 7 bức ảnh đẹp nhất trong tim và qua ống kính của mình. Thật lòng cảm ơn vì tất cả mọi cung bậc cảm xúc và trải nghiệm bạn đã mang lại. Mãi yêu nhé…moa 😘😘😘