Gần một tháng trước tôi tham dự hội thảo Sustainable Niche Tourism (dịch ra là hội thảo về du lịch ngách bền vững). Đây là một hội thảo chuyên ngành có quy mô không quá lớn nhưng rất tập trung và qui tụ các bài báo cáo nghiên cứu với nhiều chủ đề Du lịch ngách đa dạng và chuyên sâu. Đặc biệt hội thảo năm nay có cô giáo của tôi ở mái trường HANU thân thương Prof. Huong Bui là diễn giả chính. Ngồi nghe bài nói 20 phút về một nghiên cứu suốt 7 năm của Cô mà mắt tôi đã không chớp vì…chớp mắt vài lần là mất đi vài giây quí báu. Thông tin và kiến thức rất chắt lọc và có chiều sâu từ một nghiên cứu vô cùng tâm huyết đã làm nên sức hút cho bài nói. Tuy nhiên, còn có một yếu tố nữa làm nên sức thu hút và sức mạnh truyền cảm hứng – đó là đam mê; đam mê thực sự của cô với việc nghiên cứu. Không một phút nào trong suốt bài nói 20 phút, đôi mắt cô không ánh lên thứ ánh sáng của tình yêu và lòng đam mê với công trình nghiên cứu. Mà nói thật nhé, nếu hội thảo cho cô khung thời gian là một buổi hay cả ngày thì cô vẫn có rất nhiều điều để nói và mắt cô vẫn sẽ lấp lánh ánh sao như vậy. Tôi nói điều này để đưa ra sự tương phản với việc làm nghiên cứu mà không có đam mê hoặc đam mê chưa đủ lớn. Cũng xin nói thật lần nữa là nếu làm nghiên cứu mà không vì đam mê hoặc đam mê nhỏ bé hơn những tham vọng “danh lợi tiền tài” khác thì việc nghiên cứu được tóm gọn trong 2 chữ – “đau khổ”. Cái này tôi dịch ra từ tiếng Anh thôi – vì trường hợp đó họ sẽ nói trắng ra là “It is a pain” mà. Tất nhiên, nghiên cứu thì cũng như cuộc sống vậy – có sướng có khổ, có “ups” có “down”. Nếu muốn biết thì cần trải nghiệm cho biết. Nhưng nếu đã chọn việc nghiên cứu làm nghiệp, tôi nghĩ tốt nhất phải có đam mê mạnh mẽ thì mới lấp lánh hạnh phúc như cô của tôi được 

Trong khuôn khổ hội thảo, tôi cũng có một bài báo cáo 10 phút. Tương phản với công trình nghiên cứu 7 năm của cô tôi, công trình nghiên cứu của tôi kéo dài 7 tuần. Nếu muốn cười một chút thì bạn cứ đem chia thử cho ra số lần, rồi bật chế độ sáng tối trên màn hình máy tính hay điện thoại và kéo giảm xuống chừng đó lần…sẽ ra độ “lấp lánh” của đôi mắt tôi khi thuyết trình!!! Nói cho vui vậy chứ thật ra tôi cũng đã “cháy hết mình” trong suốt 7 tuần làm nghiên cứu và đề tài nghiên cứu cũng được đánh giá rất tích cực ở một số khía cạnh. Thứ nhất, nghiên cứu có chủ đề khá mới và sáng tạo. Trong khi các nhóm gia đình truyền thống (gồm Bố Mẹ và con cái) là một trong những thị trường được nghiên cứu /phân tích nhiều nhất trong ngành du lịch thì nhóm gia đình gồm Bố hoặc Mẹ đơn thân đi du lịch cùng con lại gần như chưa được nghiên cứu. Thậm chí xu hướng nghiên cứu về thị trường ngách tiềm năng này có vẻ vẫn không có dấu hiệu dịch chuyển mặc cho tỉ lệ người lớn nuôi con một mình tăng lên chóng mặt ở khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, nghiên cứu có tiềm năng đưa ra những kết quả và đề xuất thiết thực, hữu ích không chỉ cho nhóm các ông Bố và bà Mẹ đơn thân khi đi du lịch cùng con mà còn cho một số lượng rất lớn con cái sống trong các gia đình chỉ có Bố hoặc Mẹ. Thứ 3 và hơi bên lề một chút là đề tài được một số giáo sư tham dự hội thảo đánh giá rất có tiềm năng để trở thành một đề tài làm luận văn tiến sĩ hay. Một giáo sư đến từ một trường có tiếng ở Bồ Đào Nha mà tôi có dịp nói chuyện sâu hơn trong ngày đi khảo sát sau hội thảo đã thẳng thắn đề nghị: “Nếu em có ý định học Phd với chủ đề này thì gởi hồ sơ trực tiếp về khoa cho tôi. Khoa hiện đang cần những nghiên cứu thú vị như vậy trong mảng Family travel”. Tôi nghe cũng thấy mát lòng mát dạ và có phần ngả nghiêng chút xíu nhưng tôi biết rõ đây chưa phải là thời điểm thích hợp. Vấn đề nằm ở chỗ tôi đang có quá nhiều sở thích đang ngấp nghé tầm đam mê nhưng thực sự chưa có cái nào đủ sức để cùng tôi chinh chiến với chặng đường làm PhD nhiều thăng trầm. Thôi chững đã. Cứ tiếp tục sống với sở thích cho đến ngày đam mê thực sự xuất đầu lộ diện cũng đâu có sao!?
Nghiên cứu khá mới và sơ khai này không thể nhận được những phản hồi tích cực nếu không có được sự đồng cảm và tham gia của các anh chị bạn bè đã và đang là Bố/Mẹ đơn thân sau lời kêu gọi thống thiết của tôi cách đây không lâu. Nhân bài viết này, con/em/mình gởi lời cảm ơn chân thành đến đến các anh chị bạn bè đã giới thiệu và đặc biệt là đã trực tiếp tham gia, chia sẻ những trải nghiệm phải nói là không phải lúc nào cũng dễ dàng sẻ chia này. Để cảm ơn, tôi xin gởi đến những ai quan tâm một số kết quả chính và thú vị mà nghiên cứu có được sau quá trình phân tích thông tin dữ liệu.
1. Việc phân tích các dữ liệu thứ cấp cho thấy một tin vui – đó là nếu bạn đã, đang hay có nguy cơ cao sẽ trở thành các ông Bố/ bà Mẹ đơn thân thì xin cũng đừng buồn đến mức trầm cảm và cô lập mình quá lâu. Thế giới ngoài kia đang có khoảng 320 triệu ông Bố bà Mẹ đơn thân và khác với suy nghĩ chủ quan của rất nhiều người, phần đông trong số các ông Bố bà Mẹ đơn thân này có nguồn thu nhập khá và họ thường xuyên thực hiện các chuyến đi du lịch cùng con cái. Tổ chức OECD (2011) cũng đã thống kê được trên toàn thế giới có tới 17% trẻ em từ độ tuổi 0-14 đang sống trong các gia đình chỉ có Bố hoặc Mẹ. Trong đó các gia đình mẹ đơn thân chiểm tỉ lệ 88%.
2. Tất cả các gia đình của Bố/Mẹ đơn thân tham gia đã nghiên cứu đều cho rằng du lịch có tầm quan trọng đối với việc phát triển các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Một bà mẹ đơn thân nói: “ Bởi vì tôi sống ở Úc và các con sống ở New Zealand nên du lịch rất quan trọng để giữ kết nối gia đình và du lịch cũng là sợi dây gắn kết với các thành viên khác trong gia đình ở Anh.” Một bà mẹ khác chia sẻ: “ Du lịch có tác động tích cực đến các mối quan hệ. Với tôi các trải nghiệm du lịch là cách dễ dàng hơn để dạy bảo bọn trẻ“. Nghiên cứu của tôi cũng cho thấy việc đi du lịch được đánh giá là có tầm quan trọng với các gia đình của Bố/Mẹ đơn thân (BMĐT) tương tự như cách nó quan trọng với các kiểu gia đình khác; ví dụ như gia đình gồm các cặp bố mẹ đã kết hôn và có con cái hay các cặp đôi có con cái mà không kết hôn hay các gia đình mở rộng (extended families).
3. Đối với các gia đình BMĐT thì lợi ích chính của việc đi du lịch bao gồm: nhìn thấy bọn trẻ vui vẻ; cảm thấy thư giãn, thoải mái; khám phá thế giới; cho rằng việc đi du lịch mang lại nhiều giá trị giáo dục thiết thực chẳng hạn như xây dựng sự tự tin và thái độ biết cảm thông, chia sẻ ở các con. Một bà mẹ đơn thân chia sẻ: “Du lịch giúp bọn trẻ tự tin hơn, có trách nhiệm hơn. Việc đi du lịch dạy chúng chia sẻ với những người khác, hiểu và hỗ trợ cha mẹ”. Tôi mê tít lời bộc bạch của một bà mẹ rằng: “Là cha mẹ đơn thân mà đi du lịch với con cái thì thoải mái hơn nhiều. Bạn có nhiều thời gian, không gian cho bản thân và con cái. Bạn thậm chí có thể lười biếng và thay đổi kế hoạch mà chẳng phải bàn bạc với nhiều người”.
4. Các thách thức khi đi du lịch cùng con mà các BMĐT đề cập bao gồm: những tình huống không ngờ đến, hạn chế về tài chính, thiếu người chăm sóc và đảm bảo các vấn đề an toàn. Các thử thách nhìn chung là những thử thách phổ biến với các gia đình đi du lịch cùng trẻ nhỏ. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ ra các BMĐT luôn là người phải chịu trách nhiệm cao nhất và không có chồng/vợ cùng san sẻ nên sức ép từ những sự cố có thể xảy ra là một thách thức lớn. Cụ thể một bà mẹ đơn thân chia sẻ: “ Thử thách chủ yếu đến từ những sự việc không mong đợi chẳng hạn như lũ trẻ đột nhiên bị ốm bởi vì thay đổi thời tiết. Trong trường hợp đó, BMĐT phải xử lý mọi việc một mình”.
Một điểm cũng thú vị đáng chú ý là các BMĐT tham gia nghiên cứu có một thái độ sống tích cực khi đề cập đến những thách thức. Ví dụ, một người nói: “Tôi không nghĩ có thử thách gì nhiều, ngoại trừ khi bọn trẻ còn nhỏ thì có lẽ sẽ hơi vất vả một chút khi bạn đi du lịch cùng con”. Hay một phụ nữ khác nói: “Thử thách có thể là trong chuyện hành lí. Khi các con còn nhỏ và chưa thể giúp được trong việc mang vác hành lí. Đó thực tế là thử thách duy nhất.”
Thái độ tích cực được thể hiện rõ ràng, nhất quán hơn khi các BMĐT được yêu cầu so sách giữa lợi ích và thách thức. Một ông bố đơn thân nói: “Lợi ích nhiều hơn hẳn những rào cản vì bọn trẻ sẽ nói về chuyến đi hàng tháng trời sau đó”. Một bà mẹ đồng tình: “Với tư cách là mẹ đơn thân, tôi nghĩ du lịch cùng con cái mang lại nhiều lợi ích hơn thách thức. Vì trước khi đi tôi đã chuẩn bị mọi thứ để xử lý tình huống xấu xảy ra, nên có thể đương đầu với thử thách được. Còn lợi ích là vô cùng về mặt tình cảm và tinh thần mà con cái hưởng được từ chuyến đi.” Có một bà mẹ cho rằng thử thách nhiều hơn lợi ích, tuy nhiên cô ấy vẫn khẳng định: “Du thách thức nhiều hơn, tôi vẫn đi du lịch cùng con bởi vì tôi muốn vượt qua bản thân và học hỏi nhiều hơn từ thế giới bên ngoài.”
5. Với câu hỏi BMĐT đi du lịch cùng con cái ít hay nhiều hơn so với các gia đình có cả bố và mẹ, nghiên cứu nhận được những phản hồi khác nhau, chia làm ba nhóm. Một nhóm nghĩ rằng BMĐT đi ít hơn vì những hạn chế về tài chính. Nhóm thứ 2 không chắc về sự khác biệt trong mức độ thường xuyên khi đi du lịch giữa các kiểu gia đình. Nhóm thứ 3 nghĩ rằng BMĐT có xu hướng đi du lịch nhiều hơn vì quá trình ra quyết định nhanh chóng và dễ dàng hơn. Một chi tiết thú vị là những BMĐT người nước ngoài tham gia nghiên cứu đều đề cập đến hạn chế về tài chính khi so sánh về mức độ thường xuyên khi đi du lịch. Trong khi đó, các BMĐT người Việt Nam lại thiên về những lợi thế/bất lợi liên quan đến tương tác xã hội giữa các thành viên hơn là điều kiện tài chính. Trong khuôn khổ nghiên cứu lần này, tôi không tập trung để so sánh tìm ra những khác biệt trong hành vi đi du lịch giữa các người tham gia dưới tác động khác nhau của các yếu tố văn hóa-xã hội-kinh tế; nên chưa đủ cơ sở đưa ra những kết luận. Tuy nhiên đây có thể là một hướng nghiên cứu tiềm năng, ẩn chứa những kết quả thú vị với đề tài này.
6. Về những nhân tố BMĐT nghĩ đến/ cân nhắc trước, trong và sau chuyến đi du lịch cùng con cái thì có nhiều điểm tương đồng với các gia đình đi du lịch cùng con nhỏ khác. Trước chuyến đi, họ xem xét các vấn đề như thời gian, tiền bạc, địa điểm, thời tiết tại điểm đến, an ninh – an toàn, nên mang theo những gì, nên làm gì trong trường hợp con cái bị ốm, bị lạc. Trong quá trình đi du lịch thì các ông Bố bà Mẹ đơn thân cân nhắc về phương tiện vận chuyển, vệ sinh an toàn thực phẩm, các hoạt động vui chơi giải trí phù hợp, chi phí, chỗ ăn ngủ. Sau chuyến đi, các gia đình của BMĐT có suy nghĩ tích cực về trải nghiệm du lịch vừa qua. Một bà mẹ chia sẻ: “Mỗi lần đi du lịch về thì hai mẹ con đều vui và hạnh phúc hơn. Kiểu như đi nạp năng lượng ấy. Nên là lại tiếp tục hứa hẹn với nhau sẽ đi tiếp.” Một bà mẹ khác nói: “Đi về thấy hài lòng với cuộc sống. Thấy mình biết làm biết chơi, còn cho con đi được chỗ này chỗ kia.”
7. Khi được hỏi về những thay đổi như thế nào sẽ khuyến khích các BMĐT đi du lịch nhiều hơn cùng con cái, những thay đổi được các BMĐT tham gia nghiên cứu có thể xếp vào hai nhóm. Nhóm thứ nhất là những thay đổi khiến cho việc đi du lịch trở nên dễ dàng hơn với các BMĐT có con nhỏ, ví dụ như những thay đổi làm cho qui trình xin visa du lịch dễ dàng hơn. Một ông bố đề cập: “Các hãng hàng không nên có một giá vé đặc biệt, thân thiện hơn với các gia đình của BMĐT”. Một bà mẹ phản ánh thực tế: “Có vài dịch vụ trải nghiệm yêu cầu phải đủ gia đình gồm bố mẹ và con cái, tôi nghĩ không nên phân biệt như vậy. Hãy để đúng nghĩa của việc du lịch là để cho mọi người được khám phá và thoải mái với chuyến đi của họ.”
Thật thú vị, nhóm thay đổi thứ hai được đưa ra là những thay đổi trong quan niệm của chính các BMĐT. Một bà mẹ nói: “Thay đổi duy nhất có thể xảy ra là chính với chúng ta – những bậc làm cha làm mẹ. Hãy luôn nhớ điều gì đó chỉ khó khi bạn nghĩ nó khó và hãy luôn chuẩn bị vì chắc chắn sẽ có những thời điểm khó chịu, những việc nằm ngoài kế hoạch. Tuy nhiên hãy giữ bình tĩnh, tùy cơ ứng biến và thay đổi thái độ của bạn.” Một bà mẹ khác chia sẻ: “Chúng ta nên nghĩ tích cực. Gia đình có cả Bố Mẹ và gia đình của BMĐT đều có thể tận hưởng những niềm vui, những niềm hạnh phúc theo cách khác nhau. Chúng ta nên cố gắng tìm ra những hoạt động phù hợp nhất cho bản thân và con cái chúng ta, thay vì so sánh với những gia đình khác.”
8. Một kết quả tôi rút ra được và thấy cũng khá thú vị là chỉ có 2 ông Bố đơn thân đồng ý tham gia nghiên cứu lần này – một người nước ngoài và một người Việt. Tuy nhiên, sau đó chỉ có thông tin phản hồi từ ông Bố người nước ngoài là sử dụng được trong nghiên cứu vì lý do ông Bố người Việt nghĩ kĩ thì thấy chưa lần nào đi du lịch cùng con, dù là những chuyến đi gần nhất và ngắn nhất! Suy nghĩ ngay lập tức của tôi là…ôi trời ơi các ông Bố Việt Nam…nhưng tôi kịp kìm lại, không phán đoán chủ quan. Chắc chắn đây cũng là một hướng nghiên cứu rất thú vị khác trong phạm vi đề tài này mà!
(Lưu ý: kết quả nghiên cứu được viết theo văn phong chia sẻ, không phải báo cáo ^^)
Cảm ơn và chúc mừng ai đã đọc hết bài viết.